
Ngày Kỷ Mùi 12 tháng 4 năm 1811, vua Gia Long cho khởi công xây dựng một cung điện có quy mô lớn nằm ở trung tâm của Tử Cấm Thành, ngôi điện có tên là điện Trung Hoà.
Điện Trung Hoà chỉ xây trong vòng 3 tháng và hoàn thành vào tháng 7 cùng năm.
Điện nằm ngay trung tâm của Tử Cấm Thành, sau lưng điện Cần Chánh, trước điện Cao Minh Trung Chính của cung Khôn Thái. Dưới thời vua Minh Mạng, điện Trung Hoà chính là ranh giới phân chia Tử Cấm Thành làm 2 khu vực – cung Càn Thành và cung Khôn Thái.

Đến tháng 8 năm Minh Mạng thứ 20 năm 1839, vua mới cho đổi tên điện Trung Hoà sang điện Càn Thành. Sách Đại nam thực lục chính biên có chép “đổi tên điện Trung Hoà ở cung Kiền Thành là điện Kiền Thành, điện Trung Hoà là tên đã có từ cổ, nay không muốn lại bắt chước nên đổi đi”
Càn là quẻ thứ nhất trong bát quái gồm. Chữ CÀN là chí dương, tượng trưng cho trời, vì để thể hiện quyền lực tối thượng và uy nghiêm của bậc quân vương, nên Càn thường được dùng để đặt tên cho nơi ở của hoàng đế.
Ngược lại với CÀN là KHÔN tượng trưng cho đất. Do đó mà cung dành riêng cho Hoàng Hậu hay Hoàng quý phi có tên là cung Khôn Thái.

So với quy mô của điện Thái Hoà và điện Cần Chánh đều có chính điện 5 gian và tiền điện 7 gian, thì điện Càn Thành được mở rộng sang 2 bên tả hữu thêm 1 gian mỗi bên. Tiền điện có 9 gian 2 chái đơn, chính điện 7 gian 2 chái kép.
Ngoài ra điện còn được mở rộng theo chiều dọc bằng cách thêm không gian hậu điện ở phía sau. Nền điện được ghép từ 3 mặt bằng hình chữ nhật, cấu thành nên 3 không gian tiền điện, chính điện và hậu điện. 3 không gian này sẽ được nối với nhau bằng 2 trần vỏ cua của vì Thừa Lưu đỡ 2 máng nước bằng đồng dài 50m.

Điện đặt trên nền cao khoảng 1 mét. Lợi dụng lối kiến trúc mái trùng thiềm, khi nhìn ở chính diện, mái của tiền điện và mái hạ được phân định bằng lớp tường cổ diêm, tạo nên mặt tiền có 2 mái chồng lên nhau gọi là “mái chồng diêm”. Phần mái của chính điện cao lớn hơn nằm ở phía sau, kết hợp với bờ nóc trên đỉnh mái, sẽ cho ra hình ảnh mái có 3 tầng.
Điện Càn Thành có hiên tránh nắng rộng bao che lên toàn bộ phần bậc cấp. Mái hiên được đỡ bằng hệ kèo kê lên các cột trụ xây gạch vữa có tiết diện lớn. Mái được phân định với tầng mái hạ bằng lớp tường cổ diêm thứ 2. Vì vậy khi nhìn hướng chính diện ở một góc thích hợp, điện Càn Thành có 4 lớp mái chồng lên nhau.

Mái điện lợp bằng ngói ống men vàng Hoàng lưu ly, trên đỉnh đặt nhiều con giống khảm sành sứ.Các bờ nóc và tường cổ diêm được chia thành nhiều ô, trang trí hoa lá và thơ văn xen kẽ nhau theo lối nhất thi nhất hoạ bằng nghệ thuật pháp lam.
Phía 4 góc của điện Càn Thành được trổ thông với 4 hành lang nối với điện Cần Chánh ở hướng Nam và điện Khôn Thái ở hướng Bắc. Trước điện có 1 khoảng sân rộng, chính giữa có đường Dũng đạo lát bằng đá và 2 vạc đồng lớn được đúc dưới thời chúa Nguyễn. Trước sân có một non bộ và một bức bình phong lớn ngăn cách với điện Cần Chánh.
NỘI THẤT ĐIỆN CÀN THÀNH

Điện Càn Thành là tư cung của vua, nơi nhà vua sinh hoạt ăn ngủ hằng ngày nên được coi là cấm địa được bảo vệ nghiêm ngặt, không chỉ thường dân, ngay cả các quan lại nếu không được triệu hỏi cũng ít khi được đặt chân đến.
Theo ghi chép của châu bản triều Nguyễn, điện Càn Thành là nơi tôn nghiêm, lưu trữ nhiều báu vật như các đồ sứ quý hiếm, các kim ấn, ngọc ấn, các bộ quốc sử, công văn, châu bản của triều đình.
Điện là nơi ngày thường vua ngự điện nghe chính sự. Theo chép: “Cứ phàm ngày lẻ hàng tháng vua sẽ ngự tại điện Cần Chánh nghe chính. Các ngày chẵn vua ngự điện Càn Thành triệu các quan vào hỏi”

Cũng như số phận của nhiều cung điện khác trong Hoàng Thành Huế. Điện Càn Thành không tránh khỏi sự bào mòn của dòng chảy thời gian và những biến động của thời cuộc. Điện vẫn đứng vững suốt gần 140 năm nhờ được tu bổ liên tục lúc triều đình còn tồn tại. Năm 1945 khi vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị, kết thúc triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam, kinh thành Huế và các cung điện bên trong rơi vào cảnh hoang phế, và cho đến năm 1947, hầu hết tử cấm thành đã bị thiêu huỷ hoàn toàn.
Ngày nay điện Càn Thành chỉ còn phế tích nền móng và một vài dấu tích còn bị chôn vùi dưới lòng đất, nhắc nhớ hậu thế về một thời huy hoàng đã qua. Tuy vậy trong tâm thức của người quan tâm đến lịch sử kiến trúc văn hoá, điện Càn Thành vẫn luôn hiện hữu như một phần ký ức không thể phai mờ của một thời kỳ lịch sử thăng trầm.
Việc giữ gìn trùng tu và nghiên cứu phục hồi điện Càn Thành hôm nay không chỉ là bảo tồn một công trình kiến trúc, mà còn là giữ gìn hồn cốt của di sản Huế, của triều Nguyễn, của kiến trúc Việt Nam, và là một mảnh ghép quan trọng không thể tách rời của bản sắc kiến trúc văn hoá Việt.

Bình luận về bài viết này